Vào
ngày 27 tháng 1 năm 1973, sau bốn năm đàm phán ở Paris, một thỏa thuận
hòa bình cuối cùng đã được ký kết. Theo các ước tính khác nhau,
Washington đã mất hơn 58 nghìn mạng sống ở Việt Nam, cùng hơn 300 nghìn
người bị thương nặng. Ký các hiệp ước hòa bình này, Lầu Năm Góc đã phải
công nhận chiến thắng của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và buộc phải rút
khỏi đất nước này trong sự ô nhục. Sau 1975, Nhà Trắng đã đóng cửa Đại
sứ quán tại Sài Gòn và áp đặt lệnh cấm vận chống lại Việt Nam kéo dài
cho đến tận năm 1994.
Trong một nỗ lực để đưa Trung Quốc bị mắc kẹt vào một góc, Hoa Kỳ đã liên tục tìm kiếm cách tăng cường hợp tác quốc phòng với Việt Nam, vì ngoài ra không có nước nào trong khu vực có thể hợp tác trong một thời gian dài hơi hơn. Để đạt được điều này, Washington đã dỡ bỏ những hạn chế về việc cung cấp vũ khí cho Việt Nam, đồng thời mời quân đội Việt Nam tham gia vào các cuộc tập trận quân sự chung của phương Tây. Washington đã tìm cách thể hiện với Việt Nam rằng, khi cuộc đối đầu của họ với Trung Quốc ngày càng gay gắt hơn, Hà Nội được hoan nghênh trở thành đồng minh chính của Hoa Kỳ trong dài hạn. Những bước này đã được tính toán tốt, vì ngày nay Việt Nam sở hữu quân đội mạnh nhất trong toàn khu vực, đồng thời là đất nước có tinh thần chống Trung Quốc nhất trong số tất cả các nước có lực lượng quân sự đáng kể. Bằng cách bán ngày càng nhiều vũ khí của Mỹ cho Hà Nội và kích động tâm lý chống Trung Quốc ở Việt Nam, Nhà Trắng hy vọng nó có thể sử dụng kẻ thù trước đây thành công cụ trong các trò chơi của riêng mình.
Tuy nhiên, Việt Nam xuất phát lại là một quốc gia cộng sản và các nhà lãnh đạo của họ không quá yêu nước Mỹ, nhưng đồng thời họ cũng không cảm thấy bị ép buộc luôn phải chỉ trích nước Mỹ ở mọi lúc mọi nơi, có rất nhiều lý do địa chính trị để họ không làm vậy.
Đối với các nhà lãnh đạo chính trị Hà Nội, họ không thích ý tưởng tìm kiếm sự tái tổ chức với Hoa Kỳ, vì các nước có hệ thống chính trị xã hội khác nhau bị ràng buộc với nhau thì sớm hay muộn cũng sẽ tìm ra giới hạn cho những tình bạn như vậy.
Theo các chuyên gia, có những trở ngại khác cũng đang tồn tại trong thiết kế của Washington. Trước hết, Hà Nội theo đuổi chính sách đa phương, họ muốn có quan hệ tốt với New Delhi, Tokyo, và Moscow. Đó là lý do tại sao Washington có ít hy vọng trở thành một đồng minh chính và độc quyền đối với Việt Nam. Thứ hai, có sự khác biệt về tư tưởng nghiêm trọng giữa chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chủ nghĩa tư bản Hoa Kỳ. Cũng không nên quên rằng Mỹ đã trở thành nơi trú ngụ của hơn hai triệu người gốc Việt hình thành từ các công dân cũ của miền Nam Việt Nam, và họ ghét những người cộng sản hơn bất cứ ai khác, không đội trời chung.
Đối với tình cảm chống Trung Quốc, các chính trị gia Việt Nam chỉ ra rằng họ đã chiến đấu với người Mỹ chỉ một lần, trong khi đã chiến đấu với Trung Quốc nhiều lần trong hàng ngàn năm. Do vậy, cả Bắc Kinh và Hà Nội đều mong muốn cản trở vị thế phát triển của nước bên kia (nguyên văn: luôn phải kéo theo một con lừa). Ngày nay, đặc biệt là nhằm chống lại tư tưởng của Trung Quốc muốn trở thành một trung tâm quyền lực thao túng khu vực và thế giới, Việt Nam miễn cưỡng có mặt trong xung đột với Trung Quốc và đang hợp tác với Hoa Kỳ để Bắc Kinh phải nhượng bộ. Nếu nhận được nhiều nhượng bộ từ Bắc Kinh, thì tốc độ hợp tác của Hà Nội với Washington sẽ chậm lại.
Trong lĩnh vực cung cấp vũ khí, Việt Nam có một đồng minh đáng tin cậy hơn, vũ khí rẻ hơn, tốt hơn so với Hoa Kỳ và không bị ràng buộc - đó là Nga. Hà Nội cũng mua vũ khí từ Israel và các nước châu Âu để không phải mua chúng từ Mỹ vì họ không muốn quá phụ thuộc vào nó. Điều này cho phép Việt Nam thoát khỏi số phận của một con tốt thí trong các thiết kế của Washington.
Các tranh chấp lãnh thổ nhất định vẫn chưa thể sớm được giải quyết. Đặc biệt, Việt Nam vẫn đang tranh chấp với Trung Quốc một số hòn đảo ở Biển Đông. Nhưng trong những năm gần đây, cả hai phía Trung Quốc và Việt Nam đã cố gắng tập trung vào những điểm chung giữa họ, thay vì tập trung vào các tranh chấp. Không phải ngẫu nhiên mà Tập Cận Bình, sau khi được bầu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2017, lần đầu tiên đã đến Việt Nam, thể hiện mong muốn cải thiện quan hệ của Bắc Kinh với Hà Nội, đồng thời ngăn Việt Nam tiến gần đến Hoa Kỳ hơn.
Vâng, đúng là Việt Nam có mối thù hận với Trung Quốc, nhưng họ vẫn sẽ hợp tác chặt chẽ với Bắc Kinh trong một số lĩnh vực, và người dân của họ muốn mọi thứ được tiếp tục theo cách đó. Điều đó cũng phù hợp với Trung Quốc, vì mối quan tâm chính của nó là ngăn Hà Nội khỏi quá phụ thuộc vào Washington.